lịch sử chùa từ hiếu huế

Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế. Chùa nằm trên một ngọn đồi thông ở đường Lê Ngô Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Như vậy, năm 1306 là một cột mốc không thể vượt qua của nghệ thuật Ca Huế. Theo nhiều nghiên cứu, Ca Huế ra đời vào khoảng từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, thời Tự Đức (1847-1887) phát triển cực thịnh. Đối với loại hình âm nhạc thính phòng, nó cần tới điều kiện vật chất để nương nhờ. Trang thông tin và chia sẻ về du lịch, văn hóa, cuộc sống, do Phạm Hoài Nhân thực hiện. Chùa Từ Hiếu - Cảm nhận Việt Nam Tìm kiếm tất cả các trang web Tỉnh Thừa Thiên - Huế đã thông báo điều chỉnh một số biện pháp kiểm soát phòng, chống dịch, cho phép nhiều lĩnh vực hoạt động trở lại, mở cửa các di tích lịch sử cho khách tham quan ngoài trời từ ngày 28/09. Di tích cố đô Huế mở cửa trở lại cho du … Điểm tô vẻ cổ kính của đất cố đô là ngôi chùa có lịch sử từ hàng trăm năm gắn liền với chiếc giếng thiêng. Là vùng đất của những công trình kiến trúc cổ từ nhiều thế kỷ trước, có thể nói dọc khắp các con phố, ngõ hẻm ở Huế đều có những địa điểm Site De Rencontre Pour Jeune Ado Gay. Chùa Từ Hiếu HuếChùa Từ Hiếu là một trong những ngôi chùa cổ có từ triều Nguyễn. Đây là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất gia tu hành và tịnh dưỡng dưới sự chăm sóc của ban thị viết dưới đây cung cấp một số thông tin về chùa Từ Hiếu Huế, hy vọng sẽ hữu ích cho bạn trong chuyến khám phá vùng đất Cố Thị MayChùa Từ Hiếu ở đâu?Tọa lạc trên đường Lê Ngô Cát phường Thủy Xuân, TP Huế, chùa Từ Hiếu là tổ đình của nhiều ngôi chùa ở Huế, nhiều tăng ni đã xuất gia ở đây. Google MapsLịch sử hình thành tổ đình Từ HiếuNguyên sơ của chùa Từ Hiếu là một thảo am được làm bằng tre, lợp tranh do hòa thượng Nhất Định lập nên vào năm 1843 để nuôi mẹ 1848, một số thái giám trong Hoàng cung triều Nguyễn đã tâu xin triều đình hỗ trợ xây nên chùa Từ Hiếu có ba gian hai chái, cột kèo chạm trổ, phía sau xây Thống Hội Đường, phía trước xây Lạc Thiện Đường, phía phải xây Ái Nhật Đường và lầu DungKiến trúc chùa Từ HiếuXây dựng từ thế kỉ XIX, chùa Từ Hiếu ảnh hưởng rõ nét kiến trúc từ thời phong kiến. Những chi tiết rồng phượng được chạm khắc tỉ mỉ, phần hiên, cột chùa và mái ngói cũng được thêm vào nhiều hình tượng biểu tượng tạo nên một vẻ ngoài cực kỳ ấn tượng. Bên cạnh đó, khuôn viên chùa đẹp, thơ mộng với rừng thông cao vút, hồ nước trong veo tạo cho du khách cảm giác vô cùng thanh bình, tịnh tâm và thư đặc biệt “vô cùng” của chùa Từ Hiếu HuếChùa Từ Hiếu nổi tiếng cả nước và thế giới bởi đây là ngôi chùa mà xưa kia thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất gia tu tập. Sau khi từ Thái Lan trở về một năm qua, thiền sư Thích Nhất Hạnh tiếp tục chọn chùa là nơi tịnh dưỡng dưới sự chăm sóc của ban thị từ khi thiền sư Thích Nhất Hạnh trở lại chùa Từ Hiếu tịnh dưỡng, vào dịp cuối tuần chùa thu hút rất nhiều người mộ đạo lên tham quan và mong gặp thiền sư. Đến chùa Từ Hiếu trải nghiệm gì?Không gian yên bình, thanh tịnhLà cổ tự ở Huế, Từ Hiếu mang đến không gian trong lành, bình yên giữa thiên nhiên. Đến với nơi đây, bạn sẽ cảm thấy như được quay lại quá khứ bởi không gian cổ kính, thơ mộng tuyệt đẹp và cảm giác thư thái, thoải mái. Ngoc Oanh DaoThăm nghĩa trang đặc biệt của các vị thái giám triều NguyễnChùa Từ Hiếu còn có một khu vực rất đặc biệt. Đó chính là một khu nghĩa trang nằm sau khuôn viên chính của chùa. Ít ai biết rằng, đây là nơi an nghỉ của 24 vị thái giám triều Nguyễn. Khu đất này có diện tích lên tới 1000m2 và có hẳn một bảng ghi công những đóng góp của các vị thái giám cho triều đình thời xưa. Gặp gỡ thiền sư Thích Nhất HạnhNhư đã giới thiệu phía trên, chùa Từ Hiếu là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh từng xuất gia và tĩnh dưỡng khi về già. Vậy nên, sau khi tham quan chùa, du khách có thể sẽ có cơ hội gặp gỡ thiền ý khi ghé thăm chùa Từ Hiếu HuếLà nơi trang nghiêm nên khi vào chùa thắp hương, lúc vãn cảnh và chụp ảnh bạn phải luôn nhớ ăn mặc lịch sự, tránh việc mặc quần áo ngắn, hở hang. Giữ gìn vệ sinh, hạn chế gây ồn ào làm ảnh hưởng đến chốn tu tập thanh thêmKhám phá chùa Tam Chúc, Hà Nam Ngôi chùa lớn nhất thế giớiKhám phá Chùa Bái Đính, Ninh Bình Ngôi chùa có nhiều kỷ lục của Đông Nam ÁTổng hợp 100 ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, chùa gần đây_Du khách có thể tham khảo thêm các thông tin tạiWebsite chính thức của Di sản Tràng An sẻ những bức hình đã chụp tại – Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu được xây dựng từ Am An Dưỡng tọa lạc tại thôn Dương Xuân Thượng 3 – xã Thủy Xuân – Chùa Từ Hiếu là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một trong những ngôi chùa nổi tiếng của xứ Huế. Nguồn gốc tên gọi chùa “Từ Hiếu” ảnh sưu tầm Cái tên Từ Hiếu gắn liền với chuyện của cuộc đời một vị sư có pháp danh là Nhất Định. Vào năm 1843, sau khi từ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền trụ trì chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm,hòa thượng Nhất ịnh đã đến nơi này khai sơn và dựng Thảo Am An Dưỡng để tịnh tu và phụng dưỡng mẹ già. Hòa thượng Nhất Định vốn là người có tấm long hiếu thảo, vào ngày nọ, mẹ của hòa thượng Nhất Định bị bệnh rất nặng. Nhà sư hết lòng lo thuốc thang, hàng ngày chăm sóc nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không khỏi khi đo đã có người khuyên nhà sư nên mua thêm thịt, cá để tẩm bổ cho mẹ, bởi mẹ nhà sư đã quá suy nhược cơ thể. ảnh Hòa thượng Nhất Định nghe xong, mặc cho thiên hạ đàm tiếu chê bai, nhà sư vẫn hàng ngày chống gậy băng rừng, lội suối xuống chợ cách Thảo Am An Dưỡng đó hơn 5km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ tẩm bổ. Câu chuyện cảm động của hòa thượng Nhất Định được truyền đến vua Tự Đức vốn là một vị vua vốn rất hiếu thảo với mẹ. Vua Tự Đức đã lấy lòng cảm phục trước tấm lòng của hòa thượng Nhất Định nên đã ban tên “Từ Hiếu tự” cho Thảo Am An Dưỡng và ban tiền để tu sửa lại. Thảo Am An Dưỡng được mang tên chùa Từ Hiếu từ đó cho đến ngày nay. Từ là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại. Hiếu là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời. ảnh Vào những ngày rằm hàng tháng, chùa Từ Hiếu luôn là một điểm đến cho các thiện nam, tín nữ lên chùa bái Phật, với mục đích cầu sức khỏe cho ba mẹ, ông bà. Đây cũng chính là lý do Chùa Từ Hiếu trở thành ngôi chùa nổi tiếng của Huế. Nơi đặt nghĩa trang của thái giám ảnh Ngoài ra chùa Từ Hiếu còn có một nghĩa trang khá “độc nhất vô nhị” của Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Nghĩa trang này từng là nơi chôn cất các quan thái giám trong cung triều Nguyễn khi xưa. Cũng chính vì thế nên ngoài tên gọi Từ Hiếu,ngôi chùa còn có các tên gọi khác như “chùa Hoạn quan” hay “chùa Thái giám”. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1843, khi sư Nhất Định mới lập Thảo Am An Dưỡng. Lúc đó, quan thái giám Châu Phước Năng lúc bấy giờ đang cung phụng cho vua Thiệu Trị lo rằng sau này khi nằm xuống mồ mả không ai coi sóc, nên đã đứng ra quyên tiền góp của từ các thái giám trong cung để cùng nhau trùng tu Thảo Am An Dưỡng. ảnh sưu tầm Chính vì thế, về sau những thái giám trong triều Nguyễn nếu có phần công đức tại chùa sau khi qua đời sẽ được nhà chùa mai táng, chôn cất và hương khói tại nơi này. Đến với chùa Từ Hiếu bạn sẽ cảm thấy thanh tịnh, dườn như quên đi những phiền muộn của cuộc sống xô bồ chốn thị thành khi được hít thở bầu không khí trong lành nơi đây. Những hàng thông cao vun vút, được nghe những tiếng chuông vang vọng khắp chùa, càng nghe càng nhẹ lòng hơn, càng hiểu hơn về Huế. ảnh sưu tầm Ngoài ra, chùa Từ Hiếu còn có khung cảnh rất tuyệt, với hồ sen tỏa hương thơm, hồ cá rộng, con suối nhỏ chảy róc rách, có cửa chùa nhỏ, có cổng Tam quan uy nghi rêu phong, có cây xanh tươi tốt,… là những cảnh đẹp để bạn có thể tự chụp và lưu giữ những bức ảnh đẹp đẽ, sắc nét, tuyệt vời về xứ Huế mộng mơ. Có thể bạn quan tâm Top 5 ngôi chùa nổi tiếng tại Huế Chùa Thiền Lâm độc đáo với ngôi chùa “phật đứng, phật nằ” trên đất Huế Nhà vườn An Hiên nơi tìm về chốn bình yên binhqb94 Tổng hợp Chùa Từ Hiếu From Wikipedia, the free encyclopedia Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hóa và lịch sử của cố đô Huế. Quick facts Chùa Từ Hiếu, Tên khác, Vị trí, Quốc gia, Địa... ▼ Chùa Từ HiếuChính điện chùa Từ HiếuTên khácTổ đình Từ Hiếu 慈孝祖廷Vị tríQuốc gia Việt NamĐịa chỉthôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố HuếThông tinTôn giáoPhật giáoKhởi lập1843Người sáng lậpHoà thượng Nhất ĐịnhQuản lýThượng tọa Từ ĐạoTrang webChùa Từ Hiếu trên Facebook Cổng thông tin Phật giáoxts Ẩn mình trong một rừng thông, chùa Từ Hiếu Huế là ngôi cổ tự biểu tượng của lòng hiếu thảo. Ngôi chùa nhuốm màu hoang sơ huyền bí giữa đạo và đời mà theo thời gian, cũng có lẽ vì thế mà địa điểm du lịch Huế này trở thành một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của mảnh đất Cố đô. 22/12/2020 Nguồn ảnh Nếu cảm thấy mệt mỏi, áp lực với cuộc sống thì hãy làm ngay 1 chuyến du lịch Huế đến với chùa Từ Hiếu cùng hòa mình vào chốn thiên nhiên yên bình, thoải mái để quên đi những phiền muộn, âu lo bạn nhé. Chùa Từ Hiếu Huế, ngôi chùa biểu tượng cho lòng hiếu thảo Chùa Từ Hiếu không chỉ thu hút du khách tham quan bởi cảnh quan và những nét kiến trúc mang đậm chất Huế xưa, đem lại cảm giác an yên, tịnh tâm khi bước chân đến mà còn bởi câu chuyện cảm động về lòng hiếu đạo và lòng người của những người con đất Việt. Chùa Từ Hiếu ban đầu chỉ là một Thảo Am với tên gọi là am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định lập nên. Ngài nguyên là tăng cang của chùa Giác Hoàng trong cung, sau cáo lão về rừng để nuôi dưỡng mẹ già và tu hành thanh tịnh tại đây. Khi mẹ của ngài bệnh nặng, bỏ mặc ngoài tai những lời dèm pha của người đời là hòa thượng nhưng lại ăn mặn, ngày ngày ông vẫn tận tâm chống gậy băng rừng vượt qua 5km để tìm thịt, cá tươi về nấu cháo cho mẹ. Câu chuyện đến được tai của vua Tự Đức, vốn là người con hiếu thảo, khi biết được chuyện nhà vua liền lấy lòng cảm kích trước tấm lòng của hòa thượng Nhất Định nên ban cho “Sắc tứ Từ Hiếu tự”. Đến năm 1848, sau khi thiền sư Nhất Định viên tịch, vua Tự Đức đã cho mở rộng Thảo Am thành chùa Từ Hiếu như ngày nay. Công trình này kể từ khi mới bắt đầu xây dựng luôn được triều đình, các quan thái giám và các phật tử quan tâm giúp đỡ. Kiến trúc độc đáo của chùa Từ Hiếu Chùa Từ Hiếu Huế tọa lạc trên một khu đồi núi thấp khá bằng phẳng, phía trước cổng chùa là một khu đồi thông xanh mát, bên cạnh có một con suối nhỏ trong vắt quanh năm nước chảy. Chùa nổi bật bởi sự kết hợp hài hòa giữa lối kiến trúc cung đình Huế nhưng có phần giản dị và khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Điều này thể hiện rõ trong từng nét chạm khắc, trong cách đắp và trang trí gốm sứ trên các bức phù điêu với những hoa văn rồng phượng. Nét giản dị của chùa còn được thể hiện qua lối kiến trúc chữ “Khẩu” với ba gian hai chái truyền thống tạo thành tổng thể khép kín. Ngoài thờ những bức tượng Tam thế phật, Phật Thích Ca thì tại chùa còn thờ tranh. Đây cũng là nét đặc biệt khiến không gian chốn thờ tự vốn uy nghiêm trở nên gần gũi hơn. Bên cạnh đó, mỗi gian nhà thờ tự cũng như nơi ở của các vị sư tăng đều mang dáng dấp kiến trúc của những ngôi nhà rường Huế hòa mình với thiên nhiên khiến ai một lần đến đây đều cảm nhận được sự nhẹ nhàng, thư thái trong tâm hồn. Chùa Từ Hiếu Huế còn là nơi an nghỉ đặc biệt của các vị thái giám Chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng khắp trong ngoài nước bởi nơi đây còn có một nghĩa trang độc nhất vô nhị - nơi chôn cất các quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa. Theo như lời xưa kể rằng, Ngôi chùa Từ Hiếu được tu sửa, xây dựng nhờ vào sự giúp đỡ của một vị thái giám có tên là Châu Phước Năng, là người có số phận bất hạnh, không có người thân khi về già, ông kêu gọi các vị thái giám trong triều đình đóng góp mở rộng Thảo Am, để sau này khi chết còn có nơi thờ tự, hương khói. Vốn mang thân phận thiệt thòi, họ xem cửa Phật chính là nơi thờ tự lâu dài. Vì thế, sau này các thái giám khi chết được chôn ở một ngọn đồi nhỏ bên cạnh chùa Từ Hiếu. Nghĩa trang thái giám Ngày nay, khu nghĩa trang này nằm bên phải của chùa có diện tích gần xung quanh là những bức tường bảo vệ cao khoảng Hơn 24 ngôi mộ được chia làm ba hàng, sắp xếp từ nhỏ đến lớn theo chức vụ của quan thái giám xưa. Ở giữa có tấm bia khắc ghi công lao đóng góp của họ đối với triều đình. Điểm hành hương thu hút khách của du lịch Huế Với vẻ đẹp hài hòa giữa kiến trúc và không gian thơ mộng, ngôi cổ tự này không chỉ là chốn hành hương của các Phật tử mà còn là điểm đến thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Cứ mỗi dịp Vu Lan về, các Phật tử lại đến chùa làm lễ và cài lên áo những đóa hoa màu hồng hoặc màu trắng để thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình. Ít ai biết rằng đây chính là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh trụ trì, ngài chính là người đã đặt nền móng khai sinh ra tục lễ “bông hồng cài áo” mà đến nay đã trở thành một nét văn hóa riêng của người Việt. Theo Trần Thị Cẩm Nhi Wiki Travel Lịch sử Các đời trụ trì Kiến trúc Hội chùa Hương [2] Chùa Hương và văn học Chú thích Hình ảnh Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong. Lịch sửChùa Thiên Trù trong quần thể chùa HươngNhững ai dù chỉ một lần hành hương thăm thắng cảnh Hương Sơn, chắc chắn cũng giữ được nhiều kỷ niệm về bức tranh sơn thủy hữu tình rất đẹp, rất thơ do thiên nhiên và con người tạo dựng. Hương Sơn là một quần thể di tích và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, bao gồm cả một hệ thống hang động, đền, chùa xen lẫn trong rừng núi hoa lá cỏ cây, nằm ở địa phận huyện Mỹ Đức, Thủ đô Hà Nội. Trải qua nhiều thế kỷ đá vẫn trơ khan cùng tuế nguyệt. Thi sĩ Tản Đà đã phác thảo bức tranh Hương Sơn;Chùa Hương trời điểm lại trời tôMột bức tranh tình trải mấy thu,Xuân lại xuân đi không dấu vếtAi về ai nhớ vẫn thơm vậy, đã bao nhiêu năm tháng trôi qua, xuân đến rồi xuân lại đi mà bức tranh Hương Sơn vẫn xuân xanh trường cửu. Đến với Hương Sơn chúng ta càng cảm nhận cái đẹp thanh tao và hương sắc đậm đà của non sông đất Việt. Dãy Hương Sơn đã bị xâm thực lâu đời của thiên nhiên, nước đã khoét núi đá thành nhiều hang động trong đó có động Hương Tích, sản phẩm đặc sắc của thiên nhiên. Theo Phật thoại thì đây là nơi lưu dấu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát tu hành đắc đạo. Bồ tát đã ứng thân thành công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành 9 năm trong động Hương Tích, khi đắc đạo rồi Ngài trở về chữa bệnh cho vua cha, trừ nghịch cho nước và phổ độ quần sinh. Khi câu chuyện Phật thoại này được truyền bá ra, các thuyền sư cổ đức đã chống gậy tích tới đây nhàn du mây nước, sau đó ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Hương Tích là dấu vết thơm tho, ý nói nơi đây đã là trụ xứ tu hành của Bồ Tát Quán Thế Âm. Còn Thiên Trù đọc theo âm Hán Việt có nghĩa là bếp trời, cái bếp khổng lồ của động đẹp nhất trời Nam. Do đó nói đi trẩy hội chùa Hương tức là đi chiêm bái cả khu vực Hương Thiên ở vùng núi Hương Sơn. Vì những ý nghĩa trên cho nên chùa Hương có sức thu hút mạnh mẽ đối với du khách trong nước và ngoài nước. Mỗi năm có hàng triệu người hành hương đến nơi đây chiêm bái Thánh tích, nếu bạn đã trẩy hội chùa Hương thì bạn có thể tự hào rằng mình đã đến đất Phật và biết thế nào là cảnh đại kỳ quan của đất nước rồi;Kể từ lúc bước lên đò ĐụcNgước mắt trông đà mãn mục vân đây, mái chèo ngư phủ sẽ dẫn lối Đào nguyên rẽ nước đưa bạn lách vào dãy non xanh trùng điệp tưởng như vô tận. Nắng xuân ấm áp chan hòa tỏa xuống suối rừng, phủ xuống người khách hành hương. Mây bạc dập dờn lướt qua những đỉnh núi xanh thẫm dưới sườn rực mầu hoa xanh phơi tấm thân thanh tịnhSuối chảy nghe xa tiếng kệ đi một quãng bạn sẽ đến đền Ngũ Nhạc, như một sơn thủy lâu đài đứng ngay bên cạnh suối. Đền thờ một vị tướng của vua Hùng Huy Vương thứ sáu tên là Hiển Quang đã có công lao đánh giặc và giúp dân trừ bạo. Sau về trí sỹ ở vùng này. Sau khi ghé vào đền Trình lễ Sơn Thần, thuyền sẽ tiếp tục đưa bạn tiến sâu vào lòng dãy núi, qua bao nhiêu kỳ sơn tú thủy để rồi “khoan mái chèo nan ghé bến tiên”, bến Trò - Thiên Trù rộn rã tấp nập, thuyền đò đậu san sát bên đến đây dừng lạiTiễn khách chèo lên cảnh thung lũng “Bếp trời” bao la, núi non hùng vĩ hiện ra trước mắt;Tiếng đâu văng vẳng chuông vàngKhói đâu ngào ngạt mùi nhang Thiên TrùTheo một số tài liệu mới tìm được thì khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 1467 đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, một sao chủ về sự ăn uống và biến động nên nhân đấy đặt tên, rồi tiếp đến chuyến tuần du của chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm vào năm Canh Dần 1770, ông đã khắc năm chữ; “Nam Thiên Đệ Nhất Động” nghĩa là động đẹp nhất trời Nam vào cửa động Hương Tích và lưu lại một số minh văn bia ký. Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu mới lại tiếp tục công việc tạo dựng;Nội tu Hương tích bảo độngNgoại khai Phật cảnh Thiên trùRồi kể từ đó Tổ ấn trùng quang, đèn Thuyền chuyển nối, cho đến đầu thế kỷ XX thì Thiên Trù đã trở thành một lâu đài tráng lệ “biệt chiếm nhất Nam Thiên”. Chùa có trên 100 nóc, với những công trình kiến trúc quy mô tính xảo của Phật Giáo Việt Nam. Nhưng đáng tiếc thay vào ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đã vào đây đốt phá Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn, năm 1948 chúng lại vào đốt phá một lần nữa và đến năm 1950 chúng lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù không còn nữa, dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Thiên Trù ta rẽ sang bên phải lên động Tiên Sơn. Ở núi Tiên Sơn, đây là một tòa động đẹp cảnh sắc thanh u, trong động có bài thơ bút tích của Trịnh Sâm và năm pho tượng đá bạch thạch soi đèn vào trông như ngọc. Động có những nhũ đá rủ xuống thành hình Tràng phan, Bảo cái, khi gõ vào phát ra những âm thanh nghe như tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng trống, tiếng khánh, tiếng chiêng, tiếng cồng đúng như hai câu thơ cổ;Non Tiên tưởng những là Tiên thậtThủa trước Đào nguyên cũng thế chăngĐi khỏi chùa Tiên chúng ta gặp chùa Giải Oan và suối Giải Oan, bên tay trái trong chùa có am Phật Tích, có động Tuyết Quỳnh, có giếng thiên nhiên Thanh Trì trong suốt và không bao giờ cạn. Tương truyền, Đức Phật bà Quán Thế Âm đã tắm ở giếng này để tẩy bụi trần trước khi vào cõi Phật. Vẫn theo đường đá gập ghềnh tiến sâu vào phía trong, chúng ta còn gặp đền Cửa Võng, đền này thờ bà Chúa Thượng Ngàn. Tương truyền bà Chúa là người cai quản núi rừng ở khu vực Hương Sơn, đồng thời cũng là nơi của những Ngọc nữ thường xuyên mang tin tức từ chùa ngoài vào chùa trong. Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã viết;Trèo qua một dịp Trấn SongĐây mới thực quần phong chi đệ nhấtQua khỏi đền Trấn Song, tiến thêm một đoạn nữa cửa động đẹp nhất trời Nam đã hé mở;Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệtGập ghềnh mấy lối uấn thang vào đã vén mây trông rõVạn trạng thiên hình vô như mây mà đá vẫn trơ trơTrên vách phấn lờ mờ treo giá Hương Tích là động chính của thắng cảnh, hình thế động như một con rồng lớn đang há miệng, biết bao nhiêu nhũ đá hình thù kỳ dị thể hiện những ước mơ bình dị của dân gian như đụn gạo, đụn thóc, cây tiền, cây bạc, cây vàng, núi cậu, núi cô, nong tằm nghé kén, con lợn, chuồng trâu, ao bèo, bầu sữa mẹ… Giá trị nhất trong động là pho tượng Đức Phật bà Quán Thế Âm bằng đá xanh tạc thời Tây Sơn, người tạc tượng không tuân theo những ước lệ sẵn có của quy cách tượng Phật, mà tạo nên một hình ảnh bà Chúa Ba đau đáu nỗi thương đá trong hang mãi chẳng giàTrăm năm rung động nét tài hoaMắt người chưa thấy dung nhan PhậtMà tự tay người Phật hiện thể thắng cảnh Hương Sơn còn có khu chùa, động khác ở phía nam Hương Tích như Thanh Sơn - Hương Đài, Long Vân Tuyết Sơn mỗi nơi có một vẻ đẹp độc đáo riêng biệt nếu bạn có đủ thời gian thì phải đi trọn mất ba ngày mới hết. Vinh dự cho Hương Sơn, ngày 19 tháng 5 năm 1958 Hồ Chủ Tịch đã về thăm, người căn dặn; “phải biết quý cảnh đẹp, phải trồng cây cối và mở mang quy hoạch lại cho bà con trong nước và quốc tế về đây vãn cảnh”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng hai lần về thăm cảnh vào năm 1961 và 1971, Thủ tướng cũng ân cần căn dặn; “phải xây dựng nơi đây thành công viên quốc gia” và gần đây nhất vào ngày mùng 4 tháng giêng năm Canh Thìn, tức ngày 8 tháng 2 năm 2000 chủ tịch nước Trần Đức Lương cũng đã về thăm chùa Hương với lời mong ước và căn dặn; “Ngày xuân mong đất nước ta yên bình, sự nghiệp xây dựng đất nước phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện ấm no – hạnh phúc, mong chùa Hương Tích mãi mãi là thắng cảnh nổi tiếng của nước ta, là nơi nhân dân gửi gắm tâm linh với Đạo Phật”. Để thực hiện ước mơ quy hoạch thắng cảnh Hương Sơn và xây dựng lâu đài quảng tịch ở thung lũng bếp trời, gác chuông 8 mái theo kiểu chùa Ngăm đã được dựng lên ở sân Thiên Trù vào năm Giáp tý 1984 tiếp theo ngày 4 tháng 3 năm 1989 Ban xây dựng chùa Hương đã được thành lập để thực hiện công việc quy hoạch và tôn tạo, rồi đến ngày 11 tháng 2 năm Kỷ tỵ nhằm ngày 18 tháng 3 năm 1989 ngày thực dân Pháp tàn phá Thiên Trù cách đây 42 năm về trước, lễ khởi công xây dựng Thiên Trù đã được tiến hành ngay tại nền móng của chùa cũ, cho tới hôm nay toà chính điện Thiên Trù đã sừng sững hiên ngang đứng giữa thung lũng bếp trời. Chỉ trong khoảng 20 năm với ước nguyện;Phạm vũ xưởng tân quy, Quyết trí trùng khai Tam bảo địaLầu đài y cựu chỉ, Thanh sơn biệt chiếm nhất Nam ThiênQuần thể danh lam cổ tự ở đây ngày một phong quang tú lệ trang nghiêm giữa núi rừng Hương Sơn ngút ngàn mây nước. Hàng loạt công trình kiến trúc mỹ thuật Phật Giáo đã và đang được tu bổ và tôn tạo, đặc biệt phải nói đến bảo Tháp Chân Tịnh nơi an trí kim thân cố Hòa thượng Thích Viên Thành, trưởng ban xây dựng, Trụ trì đời thứ 11 sơn môn Hương Tích, với kiến trúc Phật Giáo mang đậm sắc thái Mật giáo, đã tô bồi cho quần thể không gian di tích thắng cảnh chùa Hương một dấu ấn khó phai trong lòng nhân dân và Phật tử mỗi khi trẩy hội chùa Hương. Hy vọng không bao lâu nữa, khu vực quần thể thắng cảnh chùa Hương sẽ được khôi phục lại hoàn toàn với quy mô rộng rãi để phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng Phật Giáo và hành hương của đông đảo bà con trong nước và nước ngoài. Để nâng thắng cảnh Hương Sơn lên đúng tầm vóc và vị trí hiện nay, Bộ văn hóa thể thao và du lịch nước ta đã làm tờ trình lên ủy ban văn hóa và giáo dục của liên hiệp quốc để đưa Hương Sơn vào di sản văn hóa và thiên nhiên của nhân loại. Thật là;Hương Sơn cảnh Phật non tiênRừng xanh núi biếc lâm tuyền thanh caoThiên nhiên một thú động đàoCàng nhìn càng đẹp càng vào càng ưa. Các đời trụ trì Tổ Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Thượng Lâm Viện - Tăng Lục Ty Hoà thượng, Viên Gíac Tôn giả, Nguyệt Đường Chân Lý Tổ Sư, Tăng Lục ty Hoà thựơng tự Như trí Gíac Tuệ tổ sư viên tịch 14/4 năm kỷ mùi 1499 Thiền Trưởng Trần huyền Đạo Thắng Chân Nhân Thiền tăng Đạo Nhẫn Chân Nhân Cụ Hải Dao, Phạm Đức Thắng, dòng dõi của Trần Đạo Viên Quang Chân nhân, nhận lãnh trụ trì năm 1776 Tổ Hải Viên 1764 - 1810, ngài xuất gia năm 1775, trụ trì Hương Tích từ năm 1789 - 1810 Tổ Thông Dụng Hiệu An Trụ, thích cường trực bồ tát. Maha sa môn Ngộ Tâm, tam giáo thiền sư, Trực chiến bồ tát. Maha sa môn Đồng Bạch tháp, Thông Lâm bồ tát. Maha sa môn tỳ kheo, Hương Quang tháp, Tâm Trúc - hiệu Minh Thích Hoàng thiền sư Maha sa môn Tiên Quỳnh tháp, pháp danh Thanh hữu, Thích Minh thiền sư Tiên kỳ tháp, maha sa môn, Minh Nhẫn Nhục thiền sư, Thích thanh Quyết Tiêu Quỳnh tháp, maha sa môn, Trí thích thiền sư Tổ Thích Thanh Tích thiền sư 1881- 1964, trụ trì giai đoạn 1932 - 1956 Hoà thượng Thích thanh Chân 1905 - 1989, uỷ viên Hội đồng chứng minh, phó chủ tịch hội đồng trị sự TW GHPGVN, trụ trì giai đoạn 1956 - 1985 Hoà Thượng Thích Viên Thành 1950 - 2002, tự Nguyệt Trí, Chân tịnh bảo tháp, uỷ viên thường trực HĐTS, trưởng ban trị sự PG Phú Thọ, Phó ban trị sự PG Hà tây, Phó ban từ thiện TW GHPGVN, Phó ban giáo dục tăng ni TW GHPGVN, trụ trì giai đoạn 1985 - 2002. Thựơng toạ Thích Minh Hiền, 1960 Phó ban văn hoá TW GHPGVN,Phó ban trị sự thành hội phật giáo Hà Nội 07/2017-Nay Trụ trì giai đoạn 2002 - nay Kiến trúcQuần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù tọa độ 20°37′5″B 105°44′49″Đ / 20,61806°B 105,74694°Đ. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên tọa độ 20°36′47″B 105°44′4″Đ / 20,61306°B 105,73444°Đ. Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 Nam thiên đệ nhất động khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm 1739-1782. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá. Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này, vốn là ngày lễ khai sơn lễ mở cửa rừng của địa phương. Đến nay nghi lễ "mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa mới - mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chùa Hương và văn họcChùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh, làm từ thế kỷ 19, xưa nay rất được ca ngợiBầu trời cảnh bụtThú Hương Sơn ao ước bấy lâu nayKìa non non, nước nước, mây mây"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!Thỏ thẻ rừng mai chim cúng tráiLững lờ khe Yến cá nghe kinh...Nhác trông lên ai khéo họa hìnhĐá ngũ sắc long lanh như gấm dệtThăm thẳm một hang lồng bóng nguyệtGập ghềnh mấy lối uốn thang mây?...và bài "Chùa hương" của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20. Bài này đã được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung ĐứcHôm qua đi chùa hươngHoa cỏ mờ hơi sươngCùng thầy me em dậyEm vấn đầu soi gương...Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/Thuyền ta đi một ngày/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày...Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đâyChùa Hương trời điểm lại trời tôMột bức tranh tình trải mấy ThuXuân lại xuân đi không dấu vếtAi về ai nhớ vẫn thơm tuôn ngòi biếc trong trong vắtĐá hỏm hang đen tối tối ấy muốn chơi còn mỏi gốiPhàm trần chưa biết, nhắn nhe còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản ở chùa HươngMuốn ăn rau sắng chùa HươngTiền đò ngại tốn, con đường ngại xaMình đi, ta ở lại nhàCái dưa thì khú cái cà thì văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh...Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau3 Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật quen chân xọcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo Trời già đến dở dom. Chú thích ^ "Chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông" ^ “Lễ hội chùa Hương”. ^ Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền. Nữ sĩ Việt Nam. TP HCMNhà xuất bản Văn Nghệ, 2000. Trang 279. Hình ảnh Bến Đục Bến Đục Đền Trình và núi Ngũ Nhạc Đi thuyền trên suối Yến Suối Yến Cụ bà 80 tuổi chèo đò trên suối Yến Cảnh trên đường vào chùa Tuyết Cảnh Chùa Hương Chùa Thiên Trù Chùa Thiên Trù Cáp treo lên chùa Hương Động Hương Tích Đánh cá gần chùa Hương Một tự viện bên suối Hổ Khê trong quần thể di tích Nguồn Wikipedia

lịch sử chùa từ hiếu huế